Kỷ niệm25 năm ngày mất của vợ chồng Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh
(29/8/1988 – 29/8/2013)
Phạm Xuân Nguyên
Phạm Xuân Nguyên
![]() |
Gia đình cố nghệ sĩ Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh |
Nhân 25 năm
mất của vợ chồng Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh (29/8/1988 – 29/8/2013) tôi đưa lại
bài viết cách năm năm trước, khi những bài thơ di cảo viết trong thời chiến của
Lưu Quang Vũ được in ra. (Phạm Xuân Nguyên)
Những câu thơ
âm thầm
Muốn nói hết
sự thực
Về đất nước
của mình
(L. Q.
V)
Thơ phản kháng mà mềm như khóc
(Lê Xuân
Đố)
Anh sinh năm 1948, và như mọi thanh niên thế hệ mình,
anh nhập ngũ ở độ tuổi hai mươi, khi đất nước có chiến tranh. Thời Vũ nhập ngũ
là giữa những năm sáu mươi của thế kỷ hai mươi.
Thời đoạn 1968 – 1972 ở Việt Nam là gì? Là chiến tranh.
Chiến tranh ở hồi bi kịch nhất và bi tráng nhất. Nhưng Vũ, như các chàng trai
cùng thời, khi mới nhập ngũ là vào bộ đội - trường học lớn của cách mạng, là đi
đánh Mỹ, là tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của anh khi mới
khoác bộ quân phục màu xanh lên mình là mang chở nhận thức và tình cảm chung của
thời cuộc hồi đầu.
Công sự
pháo
Phủ đầy ngụy
trang xanh
Trong những
chùm cây dại
Có vài cành
bưởi cành chanh
Cả quê nhà
Cùng ta chiến
đấu
Từng viên đạn
lắp vào nòng pháo
Bồi hồi nghe
hưởng bưởi lá chanh
(Lá bưởi lá
chanh, 1965)
Cám ơn thời
gian cám ơn hôm nay
Người chiến
đấu mang nụ cười đẹp nhất
Ngày ấy ta
chưa thấy hết tầm đất nước
Ngày ấy ta
chưa hiểu rõ lòng ta
Anh chưa biết
yêu em như bây giờ
(Ngày ấy..., 1967)
Thơ Tố Hữu ngày ấy từng viết: “Hoan hô anh giải phóng quân! Kính chào anh
con người đẹp nhất!”.
Thời cuộc hồi sau khắc nghiệt hơn, tàn nhẫn hơn. Giai
đoạn “vào bộ đội” chuyển nhanh sang giai đoạn “đi lính”. Người lính Lưu Quang Vũ
trải đời quân ngũ và cuộc chiến đã thấy ra “Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn
nhiều / Rách tan cả những làn sương đẹp phủ”. Không phải từ những bi kịch đời
riêng của Vũ mà anh có cái nhìn sẽ bị coi là “u ám, đen tối” như vậy về đất
nước, nhân dân. Đọc hết thơ anh thì thấy có một cái gì đấy từ thẳm sâu trong anh
đã khiến anh sớm và nhanh nhìn cuộc đời ở phía “viển vông, cay đắng, u buồn”.
Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, một người bạn cùng thời Vũ, trong một bài
viết có nhắc lại câu thơ như đã thất lạc của Vũ: “tuổi hai mươi khốn khổ của tôi ơi / tuổi tai
ương dằng dặc trận mưa dài”. Cuộc chiến với sự chết chóc đổ vỡ của nó chỉ
mài sắc và đào sâu thêm nhiều nữa, mạnh nữa cảm quan ấy trong anh và của anh. Từ
đây, với Vũ, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã là cuộc chiến tranh Việt Nam
mà đối tượng bị tàn phá là đất nước Việt Nam và nạn nhân là con người Việt Nam.
Lưu Quang Vũ đã đi lính và đã bỏ lính. Tôi không muốn nghĩ đó là một hành động
đảo ngũ đơn giản. Tôi nghĩ đó là một thái độ phản chiến từ trong tâm thức. Đọc
thơ anh thấy khẳng định điều này. Những bài thơ lạc thời cuộc chiến được viết ra
để bày tỏ một cách nhìn, một thái độ, biết là không thể đăng được nhưng không
thể nào không viết ra, chúng tập hợp thành một di cảo để khi đưa ra dưới ánh mặt
trời phát lộ một điều là Lưu Quang Vũ đã thay đổi nhận thức và tình cảm của mình
khi đi qua cuộc chiến. Đất nước nhân dân trở thành cảm hứng lớn của thơ Lưu
Quang Vũ thời chiến, được anh trình bày dưới cái nhìn thời chiến đầy khắc khoải
đau đớn, tuyệt vọng và bi quan. Điều quan trọng đáng nói ở đây là anh viết những
điều đó ngay khi đang trong cuộc chiến, và ngay ở tuổi đời rất trẻ.
Anh gọi những người trẻ nối nhau ra trận là “những đứa trẻ buồn ướt lạnh”. Họ đi với
tâm trạng “lòng chỉ muốn yêu thương / mà
cứ phải suốt đời căm giận”, cho nên “giết xong quân giặc / chẳng thấy lòng thảnh
thơi nhẹ nhõm / chỉ nỗi buồn trĩu nặng / dâng lên như đá trên mồ”. Và trong
mắt những đứa trẻ buồn cầm vũ khí giết người ấy kẻ thù hiện ra thế
này:
xác ngụy nằm
ruồi muỗi bâu đầy
những đôi mắt
bệch màu hoa dại
những gương
mặt trẻ măng xanh tái
những bàn tay
đen đủi chai dầy
các anh ơi,
đừng trách chúng tôi
các bà mạ, tha
thứ cho chúng tôi
chúng tôi
chẳng thể làm khác được
quả đồi cháy
như một phần quả đất
bao đời người
ta đã giết nhau
với các anh
tôi oán hận gì đâu
nhưng còn có cách nào khác được
Đó
chính là nỗi buồn có thực đau buốt ngực Vũ. Và dù anh có nói theo truyền thông
thời cuộc là phải bắn giết nhau thế để “con người được làm con người trở lại”
thì thực chất anh đã hiểu khác: “nhưng
mãi mãi chẳng bao giờ sống dậy / những tháng năm đã mất / những nhịp cầu gẫy gục
/ những toa tàu đã sụp đổ tan hoang”. Sau đổ máu, tất cả đã nhuốm
máu.
Cùng
thời gian Lưu Quang Vũ viết những câu thơ để trong sổ tay này, ở bên kia chiến
tuyến có một người lính và một nhà thơ là Nguyễn Bắc Sơn in tập thơ “Chiến tranh
Việt Nam và tôi”, trong đó có những câu thơ đồng vọng tâm tưởng với Vũ:
“Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước / Vì căn phần ngươi xui khiến
đó thôi”. Cũng cùng thời gian này, Tố Hữu có tập thơ “Ra trận”: “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận / Có Đảng ta
đây, có Bác Hồ”.
Từ Hiệp định Paris về kết thúc chiến tranh Việt Nam 1973
đến kết thúc chiến tranh Việt Nam 1975, thơ Lưu Quang Vũ vừa trần trụi hiện thực
vừa mong manh dự cảm. “Hòa bình đến mong
manh / Nhiều tin đồn mà chẳng có gì ăn”. Trong một bài thơ viết năm 1973
nhan đề “Nơi tận cùng”, Vũ viết:
Nơi tận cùng
mọi con đường
Một chiếc mũ
rách
Úp trên nấm mồ
sỏi cát
Nơi tận cùng
mọi con đường
Pho tượng đá
cụt đầu đứng sững
Nơi tận cùng
hoàng hôn
Trên vỏ chai
trống rỗng
Trước đó, Vũ đã lập hồ sơ mùa hạ 1972, đã dựng một
Guernica bằng thơ về Khâm Thiên dưới bom B52. Cái năm 1972 kinh hoàng, một mùa
hè đỏ lửa. Bản hồ sơ ngày đó của anh đến hôm nay vẫn còn là một tài liệu lịch sử
của tư tưởng và tâm hồn, không chỉ của một con người, một nhà thơ, mà còn của
một thời đại, một giống nòi.
những siêu
nhân vĩ đại
những tư tưởng
lớn lao nghe đến kinh người
những thần
tượng tiêu vong những đứa trẻ ra đời
bóng tối nắm
tay nhau, tình yêu chưa hợp lại
thế giới lo âu
đầy xấu xa phản bội
ngày càng ít
những điều đáng để ta tôn trọng
nền văn minh
lạ lùng của những trái bom
những đám mây
gây mưa những mìn nổ từ trường
dân tộc mấy
mươi năm giết và bị giết
mỗi phút sống
của tôi đều có người đang chết
Anh sẽ
nói lại những điều này trong phiên tòa anh muốn lập ra để xét xử những kẻ đã gây
ra thảm họa Khâm Thiên 1972.
những kẻ nào
đã gây ra tội ác
những kẻ nào
để tội ác gây ra
những chính
khách những nhà thơ
những bộ óc
chế súng bom hủy diệt
các tư tưởng
cầm quyền các nước
lãnh tụ tối
cao của mọi đảng trên đời
các ông kêu:
vì hạnh phúc con người
nay con người
chết đi
cái phúc ấy ai
dùng được nữa!
chục chiếc
B-52
không đổi được
một trẻ nghèo Ngõ Chợ
không thể nhân
danh bất-cứ-cái-gì
bắt máu vạn dân lành phải đổ
Tôi
trích thơ nhiều. Nhưng không có gì hùng hồn và thuyết phục hơn những câu thơ Lưu
Quang Vũ tự nói lên những suy tư nhà thơ đã nung nấu dằn vặt từ trong cuộc
chiến, nói lên ở thời tuổi trẻ không còn là trẻ nữa khi đã cầm khẩu súng lên tay
và bóp cò.
Tất cả
nỗi đau đớn của anh cho dân tộc dồn lại trong hai tiếng gọi tên đất nước: Việt
Nam! Âm hưởng tiếng gọi này trong thơ Vũ không phải ngợi ca mà là xót xa. Có
phải câu thơ anh kết bài thơ “Tiếng Việt” nguyên là “Tiếng Việt ơi, tiếng Việt xót xa tình”
chứ không phải “thiết tha tình”? Tố
Hữu ngợi ca: “Ôi Việt Nam tổ quốc thương
yêu / Trong khổ đau người đẹp hơn nhiều”. Chế Lan Viên ngợi ca: “Ta mọc dậy trước mắt nhìn nhân loại / Hai
tiếng Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng”. Lưu Quang Vũ thì xót xa: “Nước Việt thân yêu nước Việt của ta / sao
người phải chịu nhiều đau đớn thế / thân quằn quại mọi tai ương rách xé”.
Anh kêu lên “Việt Nam ơi” với cõi lòng rách nát khi thấy tổ quốc mình bị trở
thành miếng mồi cho các thế lực xâu xé, băm vằm. “Tất cả sẽ ra sao / Mảnh đất nghèo máu ứa? /
Người sẽ đi đến đâu / Hả Việt Nam khốn khổ? / Đến bao giờ bông lúa / Là tình yêu
của Người?”. Những câu hỏi của anh không chỉ đặt ra trong cuộc chiến, khi
chúng được đọc hôm nay. Bởi từ tháng 5. 1975 Lưu Quang Vũ đã tỉnh táo, rất tỉnh
táo, giữa cơn nồng nàn cảm xúc chứng kiến cuộc chiến cuối cùng cũng đã chấm dứt,
dự báo công việc thời hậu chiến: “Sắp tới
là những ngày khó nhất”. Khó, vì sau đổ vỡ phải dựng xây, sau ngăn cách phải
hàn gắn, và nhất là sau máu đổ không được để nhạt máu, “máu con người không phải thứ bán
mua”.
Lưu
Quang Vũ nhìn cuộc chiến như vậy là với tất cả tinh thần công dân và thi sĩ.
Người công dân trong anh không cho anh lảng tránh sự thật đau thương của đất
nước mình. Người thi sĩ trong anh không cho anh viết những câu thơ nhàn nhạt,
dửng dưng trước nỗi đau của nhân dân mình. Thơ Vũ nồng nàn, có lúc là nồng nã,
nhưng ở những bài thơ viết trực diện cuộc chiến giọng thơ anh đã nhiều khi nấc
lên, uất nghẹn và uất hận. Anh có một tâm hồn nhạy cảm và dễ tổn thương, “anh muốn ác mà không sao ác được / cứ yêu
thương chờ đợi ích gì không?”. Trong cuộc chiến, hơn một lần, anh thú nhận
trong thơ mình bất lực không cách gì che chở, cứu đỡ được cho đất nước, nhân dân
trước cơn đổ máu không biết để làm gì. Nhưng anh xác nhận tư cách nhà thơ của
mình là người đập cửa, người đi mở những cánh cửa, cho con người đến với/đến bên
con người, không hận thù chia cắt.
Người
nổi gió. Người đập cửa. Người mở cửa. Đó chính là Lưu Quang Vũ. Sứ mệnh của nhà
thơ anh đã xác định cho mình từ những ngày chiến tranh:
anh hãy đập
vào ngực mình giục giã
hãy nổi gió
cho cánh người rộng mở
và mai sau, sẽ
có những nhà thơ
đứng trên tầng
cao ta ao ước bây giờ
họ sẽ vẫn
không ngừng đập cửa
không ngừng lo
âu không ngừng phẫn nộ
bởi vô biên là
khát vọng của con người
Hai
mươi năm sau ngày anh mất ở tuổi bốn mươi, đọc những bài thơ anh viết tuổi hai
mươi thấm đầy máu và lửa, tôi gọi Lưu Quang Vũ là nhà thơ nhân dân, nhà thơ yêu
nước. Danh hiệu này không dễ gọi cho nhiều nhà thơ.
Hà Nội 15. 8.
2008
Nguồn: Quê Choa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét