Vài điều thưa lại với Chủ tịch Hội đồng Thơ (HNVVN)
Thứ tư ngày 14 tháng 1 năm 2015 10:35 PM
Tôi vốn không có thói quen đọc Lời
Giới Thiệu trước khi đọc các tập thơ vì nghĩ rằng cái hay cái dở nó nằm ngay
trong chính các bài thơ, những lời giới thiệu này nọ có thể làm sai lạc giá trị
của các bài thơ, hoặc tập thơ. Nhưng khi cầm trên tay tập thơ NGỮ PHÁP GIÓ của
nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng, tôi đã thay đổi thói quen, vì sự quí trọng và ngưỡng
mộ mà từ lâu tôi đã dành cho nhà thơ BẰNG VIỆT, khi ông còn chưa là Chủ tịch Hội
đồng Thơ, thành viên Ban chung khảo của Hội Nhà văn Việt Nam. Nhưng tôi đã không
thể đọc một cách suông sẻ. Bài viết của Chủ tịch Hội đồng Thơ Hội Nhà văn Việt
Nam giới thiệu tập thơ NGỮ PHÁP GIÓ đặt ra cho tôi nhiều câu hỏi. Nhà thơ Bằng
Việt viết:
- “Được cầm trong tay tập bản thảo mới
của nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng NGỮ PHÁP GIÓ, tôi đã nghĩ ngay rằng đây là một tập
thơ ngông, một cái ngông đủ sang trọng, lại hồn nhiên, đáng yêu, hoàn toàn chấp
nhận được ở thời chúng ta đang sống! Nhà thơ chỉ vừa ngửa cổ uống một trái dừa ở
trước những tòa tháp cổ thôi mà giọng đã rất ngông, hơn cả khi tu một be rượu
tràn đầy chếnh choáng:
… ngửa đầu uống một kinh
thành
nét mày Phật Thệ vừa thanh thản
cười,
giang tay viết giữa mây
trời
câu thơ hào sảng tặng người hào
hoa!...
( Uống nước dừa bên tháp
Vijaya
)
Chỉ say nước dừa Bình Định thôi khi
được uống cạn trong đó hình bóng tháp Vijaya, nét mày Phật Thệ và cả bóng dáng
kinh thành Chămpa xưa cũ, thứ “rượu dừa đặc sản” đó đậm chất Bình Định làm sao
và cũng đậm đà chất thơ Nguyễn Thanh Mừng làm sao! Và khi đã bước vào khung trời
và không gian thơ của Nguyễn Thanh Mừng, chúng ta dễ dàng chấp nhận thứ “ngữ
pháp gió” huyền ảo của thơ anh, nó cho phép ta chỉ cần khơi gợi, chỉ cần nói tắt
bằng những ký hiệu ngôn từ giản dị là đã đủ mở ra cả một không gian suy tưởng
rộng dài trong đó” hết trích.
Cái ngông trong nghệ thuật, bao
giờ cũng chứa đựng những sự bất ngờ thú vị, đáng yêu. Nhưng trước hết nó phải có
cái gốc chân thực. Chân ở sự vật được miêu tả và
chân ở tấm lòng người viết. Bài thơ UỐNG NƯỚC DỪA BÊN THÁP VIJAYA của
Nguyễn Thanh Mừng và lời bình của nhà thơ Bằng Việt đọc kỹ sẽ nhận ra thuộc loại
viết bừa, bình ẩu. Cách uống nước dừa được
nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng nói tới ở đây là cách uống nguyên trái, dân dã. Người
ta dùng rựa hoặc dao phạt đít trái dừa, để sọ dựa bày ra một khoảng
trống vừa miệng người uống. Khi uống, trái dừa được nâng cao hơn miệng người
uống một chút, để dòng nước dừa ngọt mát khoan thai tuôn vào miệng. Với cách
uống dân dã này, hiển nhiên người uống phải ngửa đầu, và trái dừa che
khuất cả cung điện lẫn tòa tháp. Người uống nếu có cố mở mắt thì cũng
chỉ thấy trái dừa mà thôi. Vậy thì lấy đâu ra “hình bóng tháp Vijaya, nét
mày Phật Thệ, và cả bóng dáng kinh thành Chămpa xưa cũ” để nhà thơ Nguyễn
Thanh Mừng uống cạn, và say rồi ngông: “giang tay
viết giữa mây trời/ câu thơ hào sảng tặng người hào hoa”.
Có một cách uống khác. Người ta đổ
nước dừa vào bát, bóng đền tháp sẽ in vào bát nước dừa. Người uống cách này thì
không thể ngửa
đầu vì cả bát nước dừa sẽ đổ ụp
vào mặt.
Còn nếu không cần bóng tháp in vào
bát nước dừa, mà chỉ cần trong khi uống tưởng tượng ra thôi thì có thể ngồi tại
Hà Nội ngửa đầu tu nước dừa và tưởng tượng mình đang uống cả tượng thần Tư Do
tận nước Mỹ cũng được.
Viết bừa, say giả, ngông
giả. Kết quả là nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng đã chế tạo
ra một bài thơ sai sự thật, hoang tưởng.
Lạ là Chủ tịch Hội đồng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam lại không nhận ra điều này,
nhắm mắt ca lên mây. Chưa hết, bản thân đầu đề bài thơ UỐNG NƯỚC DỪA BÊN THÁP
VIJAYA cũng đặt ra câu hỏi. Vijaya là tên vùng đất cũ của vương quốc Chămpa. Nó
là một địa danh, nay thuộc tỉnh Bình Định chứ không phải tên các tóa
tháp. Để gọi chung các tháp thuộc vương triều Chăm pa, người ta gọi là tháp
Chàm. Còn nếu muốn tách bạch thì mỗi tháp đều có tên riêng: tháp Dương Long,
tháp Cánh Tiên, Tháp Đôi… Chỉ riêng Nguyễn Thanh Mừng là lấy địa danh
Vijaya, ghi thành tháp Vijaya!
Bình Định có một món nhậu khoái khẩu
nổi tiếng, ấy là chim mía chiên giòn. Vào
mùa ruộng mía trỗ cờ, người ta dùng lưới lùa bắt hàng trăm có khi hơn những con
chim mía (to ngang ngửa với chim sẻ) mang bán cho các quán nhậu. Những
con chim mía béo ngậy, nhổ sạch lông, sau khi chiên lên thơm nức, ngon còn hơn
nem Chợ Huyện vốn là món đặc sản. Chim mía chiên, nhậu với rượu Bàu Đá thì còn
gì bằng! Nhưng sao đang nói về thơ Nguyễn Thanh Mừng lại rẽ sang chuyện chim
mía. Liên quan gì nhau? Có đấy.
Chẳng là nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng
muốn có thơ ca ngợi mùa xuân là chủ đề lớn, đúng định hướng. Lũ chim én được coi
là sứ giả mùa xuân. Vậy là lũ chim én liền bị nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng dùng thơ
hạ thủ, xỏ xâu
treo ở tiệm rượu, rồi hô hoán vu cho các tiệm rượu vô lương tâm, sát hại sứ giả
mùa xuân. Trong bài thơ GẶP XÂU CHIM ÉN BÀY BÁN TRƯỚC HÀNG RƯỢU, Nguyễn Thanh
Mừng trao cho lũ chim én sứ mạng bất khả thi, ấy là bắt những cánh chim én bé
nhỏ phải “ôm ghì mùa xuân”! Các cửa hàng rượu mà biết chuyện này chắc
sẽ không tha cho nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng về tội vu khống. Thật ra trong dân
gian vẫn có người bắt chim én để bán, nhưng thường mang tới cổng chùa bán cho
những người mua để thực hiện nghi lễ phóng sinh.
Trong bài thơ BUỔI CHIỀU TÂN SƠN
NHẤT, viết nhân việc con vào đại học, nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng có những câu:
… khi lòng cha nghĩ về
con
ba ngàn thế
giới hãy
còn trẻ thơ
ba ngàn thế giới… được nói tới ở đây hẳn là ở ngoài
thế giới chúng ta đang sống. Chắc chắn chúng tồn tại hàng triệu
năm rồi. Vậy thì ai dám chắc chúng hãy còn trẻ thơ? Mà sao lại
đặt cô bé chỉ mới ở tuổi đôi mươi vào thế so sánh ngang ngửa
với vũ trụ ra đời đã hàng triệu năm. Cái ngông này thật khó để chấp
nhận. Xem ra nó là thứ phách lối, khoe chữ. Bài thơ viết tiếp:
… bốn phương Vê Kép Tê
Ô
thương con buộc tóc thắt nơ một
mình
Tôi đã thử đọc hai câu này cho nhiều
người nghe, và đều nhận được câu trả lời: WTO thì liên quan gì tới việc buộc tóc
thắt nơ của một cô gái?
Chưa hết. Đang ở thế kỷ 21 mà nhà
thơ Nguyễn Thanh Mừng gọi việc con vào đại học là: vào cửa Khổng sân Trình!
Sao lại là cửa Khổng sân Trình? Để tu thân bằng cái triết
thuyết hủ bại “ quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”
chăng?
Tôi không nghĩ là nhà thơ Nguyễn
Thanh Mừng lại đi cổ xúy cho đạo Khổng lỗi thời, nhưng việc nhà thơ quá lạm dụng
thứ ngôn ngữ đã cũ, làm cho cả tập thơ bảng lảng không khí của quá khứ, mặc dù
đang viết về cuộc sống hiện tại. Ấy là chưa kể nhiều con chữ được dùng đi dùng
lại, thành sáo rỗng, nhàm.
Một ví dụ sai trái khác: Bài MỘT ĐÊM
XUÂN HÀ NỘI mở đầu: Thưa tôi gié lúa Rồng
Tiên/ bước chân Giao Chỉ dạt bên Chiêm Thành. Lai
lịch thế là rõ. Thế nhưng nhà thơ lại viết tiếp: Tôi về gõ cửa muôn xưa/ một
vong bản phía tiễn đưa nghìn trùng. Sao lại là
vong bản. Mất gốc à?
Tên tập thơ là NGỮ PHÁP GIÓ. Khá
gợi. Nhưng tiếp sau đó lại còn có cả Ngữ pháp Thiên hà, Bút pháp lớn lao, Thi
pháp hổ, Thi pháp mật ong… chen chúc nhau. Chim én thì ôm ghì mùa xuân, Lưỡi cuốc
khảo cổ thì thét vang sự thật, ôm ghì trung trinh. Nhà thơ
thương cảm: ba ngàn thế giới hãy còn trẻ thơ, lại thán: ba ngàn thế
giới sao sa trăng tàn… Có thể nói trừ bài thơ đầu tiên trong tập còn lưu
lại cảm xúc trong người đọc, những bài thơ còn lại, nếu không bị khô cứng như
các bài không phải lục bát in ở phần cuối của tập thơ, thì cũng sa vào bệnh sính
chữ nghĩa, sáo nhàm. Xin dẫn ra đây những thí dụ để bạn đọc thấy trò chơi chữ
nghĩa đã được dùng như thế nào trong tập thơ NGỮ PHÁP GIÓ.
… ngấn răng đuổi bóng xế tà/
nụ cười chưa dứt ngọc ngà ban mai (tr. 15) suối quê đắm đuối mê ly
tang bồng/ thác ghềnh chữ nghĩa rêu rong ta bà (tr. 16) ruột rà ríu rít
chung miền tự do (tr. 17) lắng thi pháp hổ lắng ngôn ngữ rồng (tr.
20) mê man hổ suối say sưa hạt ngàn/ ném vào thành lũy bàng hoàng cung
đao (tr. 21) ngửa đầu uống một kinh thành/ giang tay viết giữa mây
trời/ tôtem thị tộc kiêu sa/ thầm vương ngấn nước ngân nga uy quyền (tr.
23) Tình yêu có một chính quyền/ gặp nhau rạng lửa thiên tài (tr. 27)
một mùi vương đế ngất ngây/ nụ cười sông bể tỏa lời vô biên (tr. 28)
thả vào dâu bể ánh cười phù du/ chập chùng ký ức lúa khoai thét gào
(tr. 31) vơi đầy rót một không trung biên thùy (tr. 33) tôi tìm ngữ
pháp thiên hà/ ba ngàn thế giới sao sa trăng tàn (tr. 34) về quê gối
núi ôm sông (tr. 35) trăng sao đắm đuối thả rời xiêm y/ bên rìa vũ trụ
mê ly/ tôi tung áo mão phóng cuồng/ thành trì mây nước đế vương giang hồ
(tr. 36) Cơ hồ huyết mạch bách tùng/ thành ngơ ngác giữa lâm chung địa
hình (tr. 37) Cánh chim sứ giả ôm ghì mùa xuân (tr. 39) huyền
vi của cuộc chơi đùa/ Quỷ ma mặc áo thánh thần/ vùi theo thời đại tần
ngần khép mi/ thét vang sự thật ôm ghì trung trinh (tr. 41) nâng ly vạn
tuế trước Rằm tháng Giêng (tr. 42) nháp thiên dang dở vào chương vững
bền/ chữ đơn bạc rót trên câu lẫy lừng (tr.43) khi lòng cha nghĩ về
con/ ba ngàn thế giới hãy còn trẻ thơ/ Bốn phương Vê Kép Tê Ô/ thương con buộc
tóc thắt nơ một mình/ con vào cửa Khổng sân Trình (tr. 45) cù lao xanh
có cọng rêu thăng hà (tr. 47) mở tung kho báu thỏa thuê linh đình/ đi
tìm bút pháp lớn lao/ con chim gõ kiến gửi vào hư vô (tr.49) mắt môi
thàm thụa thiên hà (tr.50)…
Thật khó mà trích ra cho hết những
“sáng tạo” của trò
chơi chữ nghĩa bày nhan nhản trong tập thơ NGỮ PHÁP GIÓ. Viết hay dở thế
nào là chuyện của nhà thơ. Nhưng Hội đồng thơ của Hội Nhà văn có trách nhiệm tác
động vào việc đưa nền thơ của đất nước phát triển. Chủ tịch Hội đồng thơ trực
tiếp viết lời giới thiệu, khen một tập thơ có nhiều bài viết bậy, chữ nghĩa quá
cũ, lại rất sính chữ sáo mòn… không biết đang cổ vũ cho thơ Việt phát triển theo
hướng nào?
Cũng trong Lời giới thiệu in ngay ở
đầu tập thơ này, nhà thơ Bằng Việt nức nở khen một bài thơ khác của nhà thơ
Nguyễn Thanh Mừng trong tập Ngàn xưa in từ cuối thế kỷ
trước.
Nghe đồn vua xứ Chà
Bàn
dâng miền Ô Lý rước nàng vu
quy
tôi mang rượu đến biên
thùy
hắt lên mây trắng biệt ly cả
cười…
Khí tiết của chàng trai Việt xem ra
rất hào sảng. Nhà thơ Bằng Việt bình: “đó là tấm lòng say mê và ngưỡng
mộ cái Đẹp Vĩnh Cửu và Tình Người Cao Cả”. Thử đọc tiếp bài thơ để
thấy hết cốt cách của chàng trai Việt hào sảng đến độ nào:
Thân không tấc đất cắm
dùi
bể sông thi phú trăng trời phong
sương
cắn răng nhường bậc đế
vương
gươm cùn quẳng xuống vệ đường nhân
duyên…
Chàng trai Việt được nhà thơ miêu tả
là thân không tấc
đất cắm dùi nhưng tài năng thì bể sông thi phú và đã từng trải…
trăng trời phong sương. Một con người hội đủ tài năng và bản lĩnh như
vậy, nhưng khi quyết đi cứu người mình yêu, được ví như đi bảo vệ cái Đẹp Vĩ
Cửu, lại chỉ mang theo be rượu và thanh gươm cùn! Sau khi cả cười, hắt
rượu lên mây trắng biệt ly, thì chỉ còn biết quẳng thanh gươm cùn
xuống vệ đường nhân duyên. Ấy vậy mà còn cao giọng - quyết thu trăm họ
về tay! Sự thảm hại của người con trai Việt ở đây chỉ càng làm cho những
câu thơ được tán dương là hào sảng trở nên lố bịch. Nói cho cùng nó
cũng chỉ là một thứ phách lối. Trao đất nước cho loại phách lối này thì mất nước
như bỡn.
Nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng từng nói
lên chí khí của mình: Dở dang cuộc rượu Thăng Long/
tôi về bù khú rêu phong Đồ Bàn…Để rồi: quẳng ngai báu để làm vua/
quẳng đèn tìm lửa/ quẳng chùa tìm kinh. Tức là tìm tới giá trị
đích thực của đời người. Đấy là chí khí của Nguyễn Thanh Mừng. Trong Thơ. Còn
Nguyễn Thanh Mừng trong đời thực? Sau 5 năm ngồi ghế Chủ tịch Hội Văn nghệ,
Nguyễn Thanh Mừng bị nhiều hội viên kiện vì những việc làm sai trái. Lãnh đạo
tỉnh buộc phải tìm người thay. Chủ tịch Hội Văn nghệ tuy coi rẻ ngai
báu, nhưng lại quyết không rời ghế Chủ tịch Hội, không chịu trao chìa khóa
phòng Chủ tịch Hội cho người khác. Lãnh đạo tỉnh buộc phải cho thanh tra và tiến
hành đại hội. Thuộc cấp của Chủ tịch Hội bị kỷ luật, bản thân Nguyễn Thanh Mừng
bị buộc phải rời khỏi cơ quan Hội, giáng chức, làm cấp phó của một ban ngành
khác. Nhưng cái ghế quyền lực vẫn ám ảnh khi dư luận có tin sẽ nổ bom
tại đại hội. An ninh được thắt chặt. Không có vụ nổ bom nào tại Đại hội Văn nghệ
tỉnh Bình Định. Nhưng xát thương thì có. Người bị xát thương nặng nhất là Nguyễn
Thanh Mừng. Uy tín gần như mất hết. Thế mới biết giữa thơ và người luôn có quan
hệ nhân quả.
Từ cuối thế kỷ trước, VTV.3 đã có
phim chân dung về nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng. Mở đầu phim là hình ảnh một chiếc
xe con lướt nhẹ trước khi dừng hẳn. Người tài xế lễ phép mở cửa xe. Một người
đàn ông tầm thước mặc bộ ves màu sáng, giày da, vali đen bóng từ trong xe bước
ra. Đó là nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng. Tập thơ NGỮ PHÁP GIÓ có bài 180 GIÂY VỚI
MỘT NHÀ THƠ TRẺ, Nguyễn Thanh Mừng ý thức rất rõ giá trị của thời gian, từng
giây, và giá trị của bản thân.
180 giây thôi
Ngôn ngữ tự do của vị anh
hùng
Và ngôn ngữ nhà thơ
ở thời điểm kết tinh, không thể
khác…
Qua cung cách trò chuyện với một nhà
thơ trẻ, có thể thấy Nguyễn Thanh Mừng ý thức rất rõ vị trí cao giá của mình,
một nhà thơ mà tên tuổi đã được xác lập từ cuối thế kỷ trước. Thế thì vì lẽ gì
phải nhờ tới nhà thơ Bằng Việt viết lời giới thiệu cho tập thơ mới NGỮ PHÁP GIÓ?
Nếu không vì nhà thơ Bằng Việt là Chủ tịch Hội đồng thơ đồng thời là thành viên
Ban Chung khảo Giải thưởng hàng năm của Hội Nhà văn Việt Nam? Chỉ cần lời khen
của Chủ tịch Hội đồng thơ đồng thời là thành viên Ban chung khảo đối với một tập
thơ nào đó, có thể coi như một lá phiếu đồng ý trao giải thưởng cho tập thơ ấy.
Việc làm của nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng và nhà thơ Bằng Việt không khỏi dấy lên
trong dư luận về đường dây chạy giải thưởng
của Hội Nhà văn Việt Nam mà lâu nay nhiều người vẫn nghi hoặc. Liệu có thể có
câu trả lời công khai về việc này?
Hội Nhà văn Việt Nam có quá ít những
cuộc đối thoại thẳng thắn, trung thực, chân tình. Đó cũng là lý do nền văn học
của chúng ta không có nhiều cơ hội để tiếp sức và phát triển. Trước thềm đại
hội, rất cần một cách thức mới thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của văn học: Nói
Thật.
Văn Khúc
Nguồn :Trannhuong.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét