GÓP Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO LUẬT VỀ HỘI: Ý kiến tôi: Nên bỏ quy định tại điểm 3 điều 9
Lại Nguyên Ân
Thứ hai ngày 3 tháng 8 năm 2015 5:42
AM
GÓP
Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO LUẬT VỀ HỘI:
Ý
kiến tôi: Nên bỏ quy định tại điểm 3 điều 9, bởi nếu giữ quy định này, các hội
được cấp phép sẽ đều là những tổ chức độc quyền
Xung
quanh vấn đề hoạt động của các tổ chức gọi là hội, nhất là liên quan đến khu vực
văn học nghệ thuật, tôi đã viết khá nhiều bài báo, từ 1988 đến gần đây. (1) Nhân
có việc công bố và lấy ý kiến về dự thảo luật hội, tôi xin góp một ý kiến sau
đây.
Theo
tôi, nên bỏ quy định tại điểm 3 điều 9 (điều kiện thành lập hội) trong dự thảo
(theo đó, “lĩnh vực hoạt động chính” của một hội mới lập “không trùng lắp với
lĩnh vực hoạt động chính của hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trong cùng
phạm vi hoạt động”). Tôi cũng đã thấy nhiều ý kiến theo hướng đề nghị bỏ quy
định kể trên.
Như
ai nấy đều biết, ở xã hội văn minh, tôn trọng quyền con người, thì “tự do hiệp
hội” là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong Tuyên
ngôn quốc tế về Quyền con người năm 1948, Công ước quốc tế về các quyền dân sự
chính trị năm 1966. Ở Việt Nam, quyền tự do lập hội được hiến định tại điều 25
của Hiến pháp Việt Nam sửa đổi năm 2013. Tự do lập hội là một quyền cơ bản của
con người, có ý nghĩa quan trọng trong thúc đẩy các quyền con người
khác.
Trong
thực tế, ở xã hội Việt Nam từ thời đầu của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(1945), và nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (từ 1976) cho đến gần đây vẫn có các
loại hình hội theo lứa tuổi (đoàn thanh niên, đội thiếu nhi, hội người cao tuổi,
v.v.), theo giới tính (hội phụ nữ…), theo loại hình lao động (hội nông dân, công
đoàn…), theo các lĩnh vực hoạt động (hội nhà văn, hội nghệ sĩ sân khấu,
v.v.).
Hệ
thống các hội đoàn này rất đông đảo, nhưng đều mang 2 thuộc tính: tính chất độc
quyền và tính chất "nhà nước hóa".
Một
là mỗi phạm vi hoạt động chỉ có một tổ chức hội duy nhất, và Hai là cơ quan, hội
sở các hội ấy đều được coi như những cơ quan nhà nước, “cán bộ khung” (các chức
danh lãnh đạo, nhân viên văn phòng) đều được coi như viên chức nhà nước, được
hưởng lương từ ngân sách; hoạt động của các hội đều được bảo đảm bằng ngân sách
nhà nước, tức là từ tiền đóng thuế của người dân.
Tính
chất “nhà nước hóa” của hệ thống các hội như trên thể hiện đặc biệt rõ rệt ở
thời bao cấp (trước 1986 ở phạm vi toàn quốc) với hệ thống các hội bao trùm từ
cấp trung ương đến cấp địa phương.
Sang
thời đổi mới, rõ nhất là các năm 2000-2005, có lúc từ phía lãnh đạo đã muốn thay
đổi hệ thống các hội đoàn này, tìm cách “xã hội hóa” các hoạt động của nó, và
điều đó cũng có một số kết quả nhất định. Song tiến trình này đã sớm bị ngừng
lại, rồi dường như có xu hướng muốn khôi phục hệ thống hội đoàn bao cấp. Rốt
cuộc, cho đến nay, về căn bản, hệ thống hội đoàn “nhà nước hóa” vẫn chưa được
tái cơ cấu; các hội này, trong thời kỳ mới, đã tạo thêm lợi thế cho mình ở thuộc
tính “độc quyền” vốn có của mình.
Thật
vậy, do chỗ ngay từ đầu, mỗi phạm vi hoạt động chỉ có một tổ chức hội duy nhất,
cho nên mỗi hội đương nhiên có được vị thế độc quyền. Hoạt động của mỗi hội từ
đây trở nên rất giống với các tổ chức kinh tế nhà nước, các tập đoàn kinh tế như
Vinashin, Vinaline… Trong những hội hiện đang hoạt động bằng các nguồn kinh phí
bao cấp đều đặn, nếu thâm nhập sâu, có thể ta sẽ thấy đó đều là những Vinashin,
Vinaline tiềm tàng.
Tuy
vậy, đó chưa phải điều chính yếu, bởi điều chính yếu là quy chế trong mỗi phạm
vi hoạt động chỉ có một tổ chức hội duy nhất tức là đảm bảo sự độc quyền của cái
hội đã có, do vậy, tước mất quyền liên kết, hiêp hội của những thành viên khác,
vốn cũng hoạt động ở lĩnh vực ấy, nhưng muốn liên kết với nhau, hoạt động cùng
nhau theo những mối quan tâm chung mà không bị chi phối bởi cái hội hiện đã
có.
Trong
tình thế như vừa phân tích, dự thảo luật hội, với điểm 3 của điều 9, quy định
“lĩnh vực hoạt động chính” của một hội mới lập “không trùng lắp với lĩnh vực
hoạt động chính của hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trong cùng phạm vi
hoạt động”, đối với lĩnh vực văn học nghệ thuật, sẽ chỉ có ý nghĩa là hợp thức
hóa diện mạo hội đoàn hiện có, − đó là những hội đoàn còn chưa được đưa hoàn
toàn ra khỏi quỹ đạo “nhà nước hóa” đã lại được cấp thêm quy chế độc
quyền.
Sự
tồn tại hệ thống hội đoàn văn nghệ này sẽ tiếp tục làm méo mó hoạt động trợ cấp
cho văn hóa nghệ thuật của nhà nước, gây bất công cho tất cả những văn nghệ sĩ
nào không là thành viên các hội sẵn có đó nhưng lại cần được tài trợ cho các dự
án nghệ thuật của mình. Mà đó cũng mới chỉ là một trong số các hệ
quả.
Nhân
đây cũng lưu ý các nhà làm luật rằng, các tổ chức được dự luật này gọi chung là
“hội”, thật ra cũng có khá nhiều điểm chung với các tổ chức được gọi là “doanh
nghiệp”, ở chỗ đó đều không phải là những cơ quan nhà nước để quản lý xã hội;
chỉ hơi khác là “doanh nghiệp” thì hoạt động kinh tế, nhằm đạt những lợi ích
kinh tế, còn các “hội” thì được định nghĩa là “hoạt động không vì mục đích lợi
nhuận”.
Tuy
vậy ranh giới sẽ không thật khác biệt khi ta nói tới loại hình doanh nghiệp xã
hội, mà hoạt động phải nhằm khắc phục những hệ quả xấu về xã hội vốn phái sinh
từ các hoạt động do nhà nước chủ trương thực hiện, ví dụ tiến trình công nghiêp
hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa…
Do
vậy, cần phải đối chiếu các quy định trong luật hội với các quy chế trong luật
doanh nghiệp, sao cho không để phát sinh những trái nghịch.
Chẳng
hạn, luật doanh nghiệp đã ngăn chặn tình trạng độc quyền, tạo điều kiện cho sự
cạnh tranh lành mạnh, đúng pháp luật cho nhiều tổ chức cùng hoạt động trên một
lĩnh vực; vậy cũng phải có quy chế tương ứng cho các tổ chức gọi là “hội” cùng
hoạt động trên một lĩnh vực văn hóa, xã hội.
Chính
vì vậy, tôi đề nghị bỏ quy định tại điểm 3 điều 9 của dự thảo luật hội, bởi nếu
giữ quy định này, các hội được cấp phép sẽ đều là những tổ chức độc quyền. Điều
đó đi ngược lại quyền hiệp hội, quyền lập hội, một trong những quyền con người
cơ bản.
29/7/2015
LẠI
NGUYÊN ÂN
Nhà
nghiên cứu văn học, Hà Nội
lainguyenan@gmail.com
Nguồn:
Trannhuong.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét