Trở về miền nhớ
( tiếp theo)
Lại qua mười ngày rồi, hôm nay mới nói chuyện
với em được. Em yêu ơi ! Hôm nay anh đang chuẩn bị lên đường, rời khu căn cứ
này để đến một địa điểm xa hơn nữa, gần mặt trận hơn, nghe phổ biến nhiệm vụ
thì cách độ sáu ngày đi đường...
Em
ạ, thời tiết ở đây mấy ngày nay tốt lắm. Nắng to, trời trong xanh, điểm những
đám mây trắng lững lờ qua lại. Những đám “bông” trắng ấy bồng bềnh lơ đãng, giá
mà biết được chúng từ phương nào bay đến ? Biển Đông hay từ phương Bắc ? Biết
đâu nó chả đang mang theo nỗi nhớ niềm thương ai gửi cho ai...
Hơn
một tháng sống ở đây, dù đời sống có thiếu thốn, nhưng anh vẫn thấy mình béo
ra, béo hơn ngày ở cơ quan. Đúng thế , một phần rất lớn là yên tâm công tác,
còn phấn khởi là đằng khác. Phấn khởi vì đạt được ước vọng và tự hào mình được
có mặt tại đây( nói nghiêm túc đấy ). Không tự hào sao được, trong Hội nghìn
năm có một này của dân tộc, chúng ta được tham dự. Vì lòng tự trọng , vì danh
dự dân tộc mà ai ai cũng tự nguyện muốn được tham gia, muốn được góp phần kể cả
xương máu của mình cho vận mệnh của đất nước, cho tương lại của dân tộc.
Em
yêu, với chúng ta, có thể nói trung thực rằng: Từ lúc cất tiếng khóc chào đời
của anh và của em, đất nước ta đã có Đảng- Người chỉ đường, dạy chúng ta biết
sống, biết đứng dậy, biết làm người, biết tự hào, biết ước vọng...Tuy thời gian
này anh chưa được tham gia một trận đánh nào, chưa hề bị một vết đạn hay mảnh
bom nào, nhưng anh cũng sung sướng là đã được và đang được sống ở nơi mà các
đồng chí của chúng ta đã dạy cho bọn Mỹ và tay sai những bài học trăm năm còn
nhớ mãi –Mặt trận đường Chín. Nơi đây những mảnh đất, khu rừng, con đường này
đã ghi lại bao nhiêu sự tích anh hùng của quân đội ta, của dân tộc ta...
Em
thương yêu, hai chữ “chiến trường” đã lôi cuốn anh từ khi nhập ngũ. Nó say mê
và quyến rũ anh ngay từ lúc anh viết vào đời mình hai câu thơ: Đã đến đây rồi,
em ơi xuân Bính Ngọ/ Tạm biệt Giao Thông anh bước vào quân ngũ.
Nói
như vậy em đừng vội trách anh phải chăng, nếu không được vào chiến trường thì
không tự hào và yên tâm hay sao ? Không phải thế, ở đây anh muốn nói với em về
ước mơ của tuổi trẻ, về lòng tự hào chung của lứa tuổi thanh xuân, của quân đội
và của dân tộc ta. Anh cũng không hề nghĩ theo kiểu mấy chàng kiếm hiệp thời cổ
“...há làm trai thì phải da ngựa bọc thây...” đâu. Nhưng trong điều kiện đất
nước đang bị xâm lược, thì nỗi khao khát được ở tuyến đầu có lẽ là ước vọng
chung của thanh niên chúng ta...Chính vì vậy, cũng nên rộng lượng một chút cho
những người đã và đang có mặt ở đây.
Em
thương yêu, đúng, thú vị thật, rất tiếc anh không phải là nhà văn để ghi lại
hết, để tả cho em nghe chi tiết cái thi vị, sự vĩ đại của Trường Sơn hùng vĩ,
của Quảng Trị anh hùng...Giá như anh có được một chiếc máy ảnh, hoặc giả biết
sáng tác âm nhạc...sẽ có những lời ca thắm tình đoàn kết giữa hai dân tộc Việt-
Lào, viết những lời ca ngợi từng lùm cây, ngọn cỏ, đất và người của đất nước
“Triệu voi” này, đã từng chứng kiến cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta
như thế nào...Tự hào thay cho những ai đã một lần được đứng tại đây, một chân
bên đông Trường Sơn- một chân bên tây Trường Sơn để nghe bài hát “ Tiếng đàn
Ta-lư” của nhạc sĩ Huy Thục!
Em,
ngoài cái lớn, cái chung, cái vĩ đại của cuộc kháng chiến chỗng Mỹ ấy, anh còn
sung sướng hơn là trong cuộc hành quân vào mặt trận này đã giúp anh trưởng
thành thêm, tôi luyện thêm về nhận thức và thực tế.
Những
bài học bằng xương máu, sự anh dũng bất khuất , trí kiên trung, quyết tâm vượt
khó, vượt khổ...thể hiện hàng ngày, muôn màu
muôn vẻ, phổ biến ở mọi nơi, mọi người.Thật vậy! Chính ở nơi này, một
góc trời của tổ quốc, những con người Việt
nam, với nhiều tầng lớp khác nhau đã góp công xây nên và ghi vào sử sanh
của dân tộc bao nhiêu trang, bao nhiêu tấm gương...những tên người tên núi, tên
sông hễ ai nghe thấy cũng nức lòng khâm phục, kẻ thù bạt vía kinh hoàng.
Sướng
thật, tự hào khi được đặt chân lên những nơi, những mảnh đất, được uống nước,
tắm mình ở những con suối, được gặp, được biết những con người mà từ xưa tới
nay , ngay cả của cha ông chúng ta cũng không mơ tưởng được.. Em yêu , chính vì
vậy , và còn nhiều điều khác nữa cơ...nó đã lôi cuốn, thôi thúc và khích lệ
niềm phấn khởi, nỗi vui mừng của anh, động viên và thôi thúc anh hăng say trong
công tác...
Em
yêu ơi, hôm nay nói nhỏ với em chuyện này( không được đẻ lộ với ai, vì đây là
chuyện có liên quan đến quan hệ quốc tế, tế nhị lắm. Trong vở kịch Hăm-lét, có
đoạn Sếch-Pia viết, đại y : Người thiếu nữ sẽ mất trinh tiết, khi để lộ mình
dưới ánh trăng...thế mà, tại đây bọn anh đi tắm ở suối, cái “kho báu” của mình
luôn bị “chụp ảnh” bởi các cặp mắt tinh nghịch và tò mò của các cô gái ở đây
đấy . ( Một lần, hai anh người quê Vĩnh Phúc, sau khi tắm xong, đứng trên tảng
đá vừa vuốt vuốt, vừa nhảy nhảy cho ráo nước trước khi mặc quần áo, có lẽ động
tác ấy đã làm cho “của quí” không còn giữ được ở trạng thái bình thường
nữa...và cái nín nhịn của các cô gái “rình nhìn trộm” cũng tràn bờ ( chẳng biết
họ nấp ở đấy từ lúc nào)...Những tiếng cười bất thần “nổ” ra sau rặng cây ven
suối, và hai khuôn mặt mang theo nụ cười nắc nẻ, với hai chiếc gùi trên lưng
tiến thẳng đến gần...Quả thật tình huống diễn ra quá nhanh và rất bất ngờ, hai
chàng không thể làm gì khác và cũng phản xạ rất tự nhiên và mau lẹ, chẳng ai
bảo ai dùng hai tay bịt chặt lấy “ cái giống” của mình, đồng thời rất nhanh
xoay lưng lại, bước vội tới đống quần áo, mặc chiếc quần đùi...Thật hoảng hồn,
cũng thời điểm ấy hai cô gái bước tới sát bên, vẫn điệu cười ngặt nghẽo hồn
nhiên các cô còn trêu : Ôi, của cái bộ đội to hung, “của” chồng mình chỉ bằng
thế này thôi...Miệng nói tay giơ ngón cái ra hiệu, thế là cả bốn người đều
cười...)
Em
thương yêu! Anh đang chuẩn bị lên đường tới đơn vị khác, anh em đang làm bún
với thịt gà cho anh ăn đấy.( quá sang và rất đặc biệt em ạ, bún anh em tự làm
bằng cách lấy mũ sắt làm cối giã gạo, ngâm trong nước, lắng, lọc...đục lỗ ống
bơ làm khuôn ép thành sợi bún. Mang quần đùi và áo lót vào bản đổi cho đồng bào
lấy gà về thịt ). Từ hôm vào đây anh đã được ăn đủ các loại thịt : Hươu, nai,
kỳ đà, gà rừng, khỉ, vượn, chim cu...rau sắn, bí xanh, rau tàu bay, rau rớn, rau
đay, củ chuối, rau lang, dọc mùng, hoa chuối rừng...và nhiều thứ khác nữa.
Anh
vẫn từng ngày đánh dấu vào trang lịch bỏ túi của mình như chuyện nàng Na-Ta-Sa
(ở Liên Xô) dã từng ngày gạch nét chì lên tờ lịch treo trên tường( trong những
năm tháng chiến tranh vệ quốc) đợi chờ Ni-Cô-Lai ngoài mặt trận trở về...Cái sự
thật ấy đã là linh hồn cho bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Xi-Mô-Nốp : “ Đợi anh
về”.
Em
ơi, trong nỗi nhớ, nó mang theo con mắt, nụ cười, làn môi, dáng đứng...như ở
bên mình, lắng đọng và sâu kín, nó động viên thôi thúc, nó lớn dần trong niềm
thương nỗi nhớ, trong năm tháng đợi chờ...
Gửi
về trái tim tổ quốc cả lòng mong nhớ và sự đợi chờ. Nhiệm vụ còn đang ở phía
trước. Hôn em !
19/9
( còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét